Viêm cột sống dính khớp là gì? Các công bố khoa học về Viêm cột sống dính khớp

Viêm cột sống dính khớp (spondylitis ankylopoetica) là một bệnh viêm cấp tính hoặc mạn tính ảnh hưởng đến cột sống. Bệnh này thường là một phần của một nhóm bện...

Viêm cột sống dính khớp (spondylitis ankylopoetica) là một bệnh viêm cấp tính hoặc mạn tính ảnh hưởng đến cột sống. Bệnh này thường là một phần của một nhóm bệnh tự miễn, có thể gây sưng, đau và khó khăn trong việc di chuyển các khớp trong cột sống. Trong quá trình tiến triển, viêm cột sống dính khớp có thể dẫn đến một số biến dạng và gây ra sự cứng khớp và quan trọng hơn là làm suy yếu thể trạng của một người bị ảnh hưởng.
Viêm cột sống dính khớp là một loại bệnh viêm xương khớp mãn tính, đặc trưng bởi sự viêm và dính kết các khớp trong cột sống. Bệnh này thường bắt đầu ở khớp sắp xếp giữa xương chậu và đốt sống chậu (khớp sọt-lưng), sau đó lan rộng lên các khớp giữa các đốt sống (khớp dính khớp) và các khớp của cột sống trên cổ (khớp sọt-cổ).

Triệu chứng chính của viêm cột sống dính khớp bao gồm đau và cứng khớp trong vùng lưng, đau cổ và hông, đau và sưng ở các khớp dính khớp. Sự cứng khớp và khó di chuyển là một dấu hiệu tiêu biểu của bệnh này, đặc biệt vào buổi sáng hoặc sau khi nghỉ ngơi lâu.

Nguyên nhân chính của viêm cột sống dính khớp vẫn chưa được rõ ràng, nhưng nghiên cứu cho thấy tương tác giữa yếu tố di truyền và môi trường có vai trò quan trọng. Yếu tố di truyền có thể tăng nguy cơ mắc bệnh, và môi trường, chẳng hạn như nhiễm trùng, có thể kích thích hệ miễn dịch gây viêm.

Viêm cột sống dính khớp là một bệnh mãn tính và không được chữa khỏi hoàn toàn. Tuy nhiên, việc điều trị có thể giảm triệu chứng và ảnh hưởng của bệnh. Phương pháp điều trị bao gồm dùng thuốc chống viêm, thuốc làm giảm đau và steroid, cùng với tập thể dục và vận động định kỳ để duy trì sự linh hoạt và giảm cứng khớp.

Viêm cột sống dính khớp là một bệnh lý nghiêm trọng và có thể gây ra các biến chứng, bao gồm cột sống thẳng hàng, phình đĩa đệm và bị hốc, viêm mắt, bệnh mạch vành và vô sinh (ở phụ nữ). Do đó, việc chẩn đoán và điều trị sớm có vai trò quan trọng trong quản lý bệnh và giảm tác động của nó lên chất lượng cuộc sống.
Viêm cột sống dính khớp (spondylitis ankylopoetica), còn được gọi là bệnh Bechterew, là một bệnh viêm xương khớp mãn tính ảnh hưởng đến cột sống và các khớp xung quanh. Bệnh này thường bắt đầu ở độ tuổi trung niên hoặc trẻ tuổi, thường là trong khoảng 20-40 tuổi, và ảnh hưởng nam giới nhiều hơn nữ giới.

Nguyên nhân chính của viêm cột sống dính khớp chưa được rõ ràng, nhưng có yếu tố di truyền và môi trường đóng vai trò quan trọng. Một gene gọi là HLA-B27 được cho là liên quan mật thiết đến bệnh này. Người mang gene này có nguy cơ mắc bệnh cao hơn, nhưng không phải tất cả những người mang gene này sẽ mắc bệnh. Các yếu tố môi trường, chẳng hạn như nhiễm trùng, có thể kích thích phản ứng miễn dịch gây viêm.

Triệu chứng chính của viêm cột sống dính khớp bao gồm:

1. Đau và cứng khớp: Triệu chứng đau và cứng khớp thường bắt đầu từ lưng dưới và lan rộng lên các khớp của cột sống. Đau và cứng khớp thường xuyên và kéo dài, đặc biệt là sau khi nghỉ ngơi lâu hoặc sau khi ngủ. Cột sống trở nên cứng và linh hoạt bị hạn chế, làm khó khăn trong việc thực hiện các hoạt động thường nhật.

2. Viêm các khớp dính khớp: Các khớp giữa các đốt sống trên cột sống bị viêm và dính kết. Điều này dẫn đến sự cứng khớp và mất đi linh hoạt trong chuyển động của lưng. Viêm khớp cũng có thể xảy ra ở khớp hông và khớp cổ, gây đau và sưng.

3. Biến dạng cột sống: Khi viêm cột sống dính khớp tiến triển, các đốt sống trong cột sống có thể bị biến dạng. Cột sống trở nên thẳng hàng và khó uốn cong, gây ra tình trạng gù lưng hoặc khuỷu tay. Bẹn cột sống cũng có thể xảy ra, khi các đốt sống bị mất dần điên, gây ra đau và mất đi linh hoạt.

4. Các triệu chứng khác: Viêm cột sống dính khớp cũng có thể gây ra các triệu chứng khác như viêm mắt (uviar), viêm đại tràng, viêm khớp khác (như khớp cổ tay, khớp cung, khớp đầu gối) và tổn thương mạch vành.

Để chẩn đoán viêm cột sống dính khớp, bác sĩ thường sẽ dựa vào triệu chứng, xét nghiệm máu, chụp X-quang và hình ảnh học khác như cắt lớp vi tính (CT) hoặc cộng hưởng từ (MRI).

Viêm cột sống dính khớp không có phương pháp điều trị chữa trị hoàn toàn. Tuy nhiên, điều trị có thể giúp giảm triệu chứng, giảm viêm và duy trì linh hoạt cho cột sống. Điều trị thường bao gồm thuốc chống viêm không steroid (NSAID), steroid, và dược phẩm chuyên dụng như các chất ức chế TNF-alpha. Vận động và tập thể dục định kỳ cũng rất quan trọng để duy trì linh hoạt và giảm cứng khớp.

Viêm cột sống dính khớp là một bệnh lý nghiêm trọng và có thể gây ra các biến chứng tác động lớn đến chất lượng cuộc sống. Việc điều trị sớm và định kỳ giám sát bởi bác sĩ chuyên khoa là cần thiết để quản lý bệnh một cách hiệu quả và giảm tác động của nó.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "viêm cột sống dính khớp":

Tác động của các bệnh thấp khớp lên chức năng tình dục Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - - 2009
Tình dục là một khía cạnh phức tạp trong cuộc sống của con người và không chỉ đơn thuần là hành động tình dục. Chức năng tình dục bình thường bao gồm hoạt động tình dục với sự chuyển tiếp qua các giai đoạn từ hưng phấn đến thư giãn mà không gặp phải vấn đề gì, và với cảm giác thỏa mãn, hoàn thiện và vui vẻ. Các bệnh thấp khớp có thể ảnh hưởng đến tất cả các khía cạnh của cuộc sống, bao gồm cả chức năng tình dục. Các nguyên nhân gây rối loạn chức năng tình dục là đa yếu tố và bao gồm các yếu tố liên quan đến bệnh tật cũng như liệu pháp điều trị. Ở những bệnh nhân viêm khớp dạng thấp và viêm cột sống dính khớp, đau đớn và trầm cảm có thể là những yếu tố chính góp phần vào rối loạn chức năng tình dục. Ngược lại, ở phụ nữ bị hội chứng Sjögren, lupus ban đỏ hệ thống và xơ cứng hệ thống, rối loạn chức năng tình dục dường như có mối liên hệ chặt chẽ nhất với sự khó chịu hoặc đau đớn ở âm đạo trong quá trình giao hợp. Cuối cùng, rối loạn chức năng tình dục ở bệnh nhân fibromyalgia có thể chủ yếu liên quan đến trầm cảm, nhưng các triệu chứng đặc trưng của fibromyalgia (đau tổng quát, cứng khớp, mệt mỏi và mất ngủ) có thể góp phần vào sự xuất hiện của rối loạn chức năng tình dục. Việc điều trị rối loạn chức năng tình dục sẽ tùy thuộc vào các triệu chứng cụ thể của bệnh nhân, tuy nhiên, có một số khuyến nghị chung bao gồm: khám phá các tư thế khác nhau, sử dụng thuốc giảm đau, áp dụng nhiệt và thuốc giãn cơ trước khi hoạt động tình dục và khám phá các phương pháp biểu đạt tình dục thay thế. Đây là một bài tổng quan hệ thống về tác động của một số bệnh thấp khớp đối với chức năng tình dục. Đến nay, chưa có tổng quan nào trước đây về chủ đề này.
#bệnh thấp khớp #chức năng tình dục #viêm khớp dạng thấp #viêm cột sống dính khớp #hội chứng Sjögren #lupus ban đỏ hệ thống #xơ cứng hệ thống #fibromyalgia #rối loạn chức năng tình dục
Tỷ lệ cao của hội chứng chuyển hóa ở bệnh nhân viêm cột sống dính khớp Dịch bởi AI
Clinical Rheumatology - Tập 26 - Trang 710-714 - 2006
Mục tiêu của nghiên cứu này là điều tra tỷ lệ mắc bệnh xơ vữa động mạch và hội chứng chuyển hóa (MetS) ở bệnh nhân viêm cột sống dính khớp (AS). Hai mươi bốn bệnh nhân AS liên tiếp (nam giới, 87,5%; độ tuổi trung bình, 50,5 tuổi; thời gian mắc bệnh trung bình, 16,5 năm), đáp ứng tiêu chí New York sửa đổi 1984 cho AS, và 19 người đối chứng cùng độ tuổi và giới tính đã được nghiên cứu. Bệnh xơ vữa động mạch lâm sàng được đánh giá qua việc khám lâm sàng các bệnh tim mạch (CV) và tiền sử hoặc sử dụng thuốc cho các sự kiện CV. Bệnh xơ vữa động mạch tiềm ẩn được phát hiện thông qua độ dày trung bình của lớp nội mô (a-IMT) và độ dày tối đa của lớp nội mô (max-IMT) ở động mạch cảnh bằng cách sử dụng siêu âm. Các xét nghiệm phòng thí nghiệm bao gồm glucose huyết tương lúc đói, cholesterol toàn phần, cholesterol HDL, cholesterol LDL, triglycerides được đánh giá bằng phương pháp tiêu chuẩn, trong khi homocysteine được đánh giá bằng chemiluminescence. MetS được đánh giá dựa trên tiêu chí NCEP-ATP III đã được cập nhật. Hoạt động bệnh được định nghĩa theo tiêu chí Nghiên cứu Đánh giá Viêm cột sống dính khớp Quốc tế. Hồ sơ nguy cơ CV trong 10 năm (%) được đánh giá theo tiêu chí Progetto Cuore. Không có sự kiện CV lớn nào được phát hiện trong nhóm nghiên cứu. Không tìm thấy sự khác biệt đáng kể khi so sánh bệnh nhân AS và đối chứng theo a-IMT trung bình (0,52±0,26 so với 0,51±0,13 mm), max-IMT (0,92±0,20 so với 0,85±0,39 mm), tỷ lệ max-IMT bất thường >1 mm (27,2 so với 5,3%), và nguy cơ CV trong 10 năm (9,9±9,6 so với 3,6±1,8%). Huyết áp tâm thu (p=0,04), tỷ lệ triglyceride so với cholesterol HDL (p=0,002), và cholesterol LDL (p=0,03) được phát hiện cao hơn đáng kể ở bệnh nhân AS so với đối chứng; ngược lại, cholesterol HDL thấp hơn đáng kể (p<0,001). MetS được phát hiện ở 11/24 (45,8%) bệnh nhân AS và 2/19 (10,5%) đối chứng (p=0,019). Không có mối quan hệ đáng kể nào xuất hiện trong tỷ lệ MetS ở bệnh nhân AS liên quan đến giá trị trung bình của độ tuổi, thời gian bệnh, chỉ số chức năng Bath Ankylosing Spondylitis, chỉ số hoạt động bệnh Bath Ankylosing Spondylitis, và phiên bản Ý của Bảng hỏi Đánh giá Sức khỏe. Báo cáo sơ bộ này chỉ ra tỷ lệ MetS cao hơn ở bệnh nhân AS so với đối chứng. Cần có các nghiên cứu tiếp theo để xác nhận điều này.
#hội chứng chuyển hóa #viêm cột sống dính khớp #xơ vữa động mạch #nguy cơ bệnh tim mạch #nghiên cứu y học
ĐẶC ĐIỂM TỔN THƯƠNG MẮT Ở BỆNH NHÂN VIÊM CỘT SỐNG DÍNH KHỚP
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 506 Số 1 - 2021
Mục tiêu nghiên cứu: Mô tả đặc điểm tổn thương mắt ở bệnh nhân viêm cột sống dính khớp. Đối tượng nghiên cứu: 32 bệnh nhân được chẩn đoán viêm cột sống dính khớp theo tiêu chuẩn New York sửa đổi 1984, điều trị nội trú tại khoa Cơ xương khớp, bệnh viện Bạch Mai từ tháng 12/2020 đến tháng 4/2021. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang kết hợp hồi cứu bệnh án. Kết quả: Tỷ lệ bệnh nhân có triệu chứng cơ năng ở mắt là 18,7%, trong đó triệu chứng nhìn mờ chiếm tỷ lệ 15,6%; đỏ mắt 3,1%; có 81,3% bệnh nhân không có triệu chứng cơ năng tại mắt. Tỷ lệ bệnh nhân có tổn thương thực thể tại mắt là 25%, trong đó viêm màng bồ đào chiếm tỷ lệ 21,9%; viêm kết mạc 3,1%; có 75% bệnh nhân không có tổn thương thực thể tại mắt. Kết luận: Cần khám mắt ở bệnh nhân viêm cột sống dính khớp do ít biểu hiện triệu chứng, tuy viêm màng bồ đào có tỷ lệ thấp nhưng có thể gây mất thị lực không hồi phục nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời.
#Viêm cột sống dính khớp #tổn thương mắt #viêm màng bồ đào
TÌNH TRẠNG ĐIỀU TRỊ THUỐC SINH HỌC Ở BỆNH NHÂN VIÊM CỘT SỐNG DÍNH KHỚP TẠI KHOA CƠ XƯƠNG KHỚP BỆNH VIỆN BẠCH MAI
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 507 Số 2 - 2021
Mục tiêu: Mô tả thực trạng sử dụng thuốc sinh học trong điều trị viêm cột sống dính khớp tại khoa Cơ Xương Khớp- Bệnh viện Bạch Mai. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang tiến cứu kết hợp hồi cứu trên 161 bệnh nhân viêm cột sống dính khớp (VCSDK) có dùng thuốc sinh học tại địa điểm nghiên cứu từ 01/2018 đến 7/2021. Kết quả: Thuốc sinh học hay được chọn đầu tiên là nhóm thuốc thuộc nhóm kháng TNF-α (69,6%) và thuốc thuộc nhóm kháng IL-17 là Secukinumab chiếm 30,4%. Có 27,3% bệnh nhân chuyển sang thuốc sinh học khác. Tỉ lệ tuân thủ điều trị là 26,1%. Lý do hàng đầu của không tuân thủ điều trị là: kinh tế (35,2%) và đáp ứng tốt (31,8%), đại dịch COVID-19 (17,6%); của giãn liều là đáp ứng tốt (66,3%), kinh tế (12,8%), đại dịch Covid-19 (10,4%); của dừng thuốc phần lớn là do lý do kinh tế chiếm 50%, các lý do khác: tác dụng phụ (14,3%), đại dịch Covid-19 (12,2%); và của đổi thuốc là không đáp ứng thứ phát (34%), không đáp ứng nguyên phát (24%) và tác dụng phụ của thuốc (20%). Kết luận: Thuốc sinh học được ưu tiên điều trị là các thuốc thuộc nhóm kháng TNF-α. Tỷ lệ bệnh nhân tuân thủ điều trị còn thấp. Lý do không tuân thủ hàng đầu là kinh tế, tiếp đến là do sự đáp ứng tốt trong quá trình điều trị và ảnh hưởng của đại dịch Covid-19. Các nguyên nhân: kinh tế, ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, hết thuốc, tác dụng phụ và không đáp ứng với thuốc sinh học là những lý do chính khiến cho bệnh nhân đổi thuốc hoặc ngừng thuốc trong quá trình điều trị.
#viêm cột sống dính khớp #thuốc sinh học #tuân thủ điều trị
Phát hiện tổn thương cấu trúc khớp cùng chậu ở bệnh nhân viêm cột sống dính khớp: So sánh giữa MRI gradient hồi âm 3D có trọng số T1 và CT dựa trên MRI với MRI tua bin hồi âm có trọng số T1 Dịch bởi AI
Skeletal Radiology -
Tóm tắt Mục tiêu

Khảo sát phát hiện xói mòn, xơ cứng và dính khớp bằng cách sử dụng MRI gradient hồi âm 3D có trọng số T1 1 mm (T1w-GRE) và CT tổng hợp dựa trên MRI 1 mm (sCT), so với MRI tua bin hồi âm có trọng số T1 4 mm (T1w-TSE) thông thường.

Vật liệu và phương pháp

Nghiên cứu cắt ngang, tiền cứu. MRI tua bin hồi âm có trọng số T1 4 mm bán trục và gradient hồi âm có trọng số T1 với độ dày lát cắt 1.6 mm và khoảng cách 0.8 mm giữa các lát cắt là chồng lấp nhau đã được thực hiện. Hình ảnh gradient hồi âm có trọng số T1 được xử lý thành hình ảnh sCT bằng cách sử dụng một thuật toán học sâu thương mại, BoneMRI. Cả hai đều được tái tạo thành hình ảnh bán trục 1 mm. Ảnh T1w-TSE, T1w-GRE và sCT được đánh giá độc lập bởi 3 chuyên gia và 4 người đọc không chuyên gia về xói mòn, xơ cứng và dính khớp. Hệ số kappa của Cohen để đánh giá sự đồng thuận giữa các người đọc, bài kiểm tra chính xác McNemar cho tần suất tổn thương và kiểm tra hạng ký Wilcoxon cho việc tự tin phát hiện tổn thương được sử dụng.

Kết quả

Mười chín bệnh nhân viêm cột sống dính khớp được đánh giá. T1w-GRE tăng sự đồng thuận giữa người đọc trong phát hiện xói mòn (kappa 0.42 so với 0.21 trong nhóm người đọc không chuyên), tăng phát hiện xói mòn (57 so với 43 của 152 góc phần tư khớp) và xơ cứng (26 so với 17 của 152 góc phần tư khớp) trong nhóm chuyên gia, và tăng tự tin của người đọc trong đánh giá xói mòn và xơ cứng. Phân tích sCT tăng độ đồng thuận cho phát hiện xơ cứng (kappa 0.69 so với 0.37 trong nhóm chuyên gia) và dính khớp (0.71 so với 0.52 trong nhóm không chuyên nghiệp), tăng phát hiện xơ cứng (34 so với 17 của 152 góc phần tư khớp) và dính khớp (20 so với 13 của 76 nửa khớp) trong nhóm chuyên gia, và tăng tự tin của người đọc trong đánh giá xói mòn, xơ cứng và dính khớp.

Kết luận

T1w-GRE và sCT tăng độ nhạy và tự tin của người đọc trong phát hiện xói mòn, xơ cứng và dính khớp, so với T1w-TSE.

Tuyên bố về sự liên quan lâm sàng

Các phương pháp này cải thiện phát hiện các tổn thương cấu trúc khớp cùng chậu và có thể là sự bổ sung hữu ích cho các phác đồ MRI SIJ trong chăm sóc lâm sàng thường quy và là thước đo kết quả cấu trúc trong các thử nghiệm lâm sàng.

#xói mòn #xơ cứng #dính khớp #MRI có trọng số T1 #CT tổng hợp từ MRI #viêm cột sống dính khớp #khớp cùng chậu
Xử lý và trình bày kháng nguyên bất thường: Những yếu tố gây bệnh chính dẫn đến kích hoạt miễn dịch trong viêm cột sống dính khớp Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - Tập 43 - Trang 245-253 - 2021
Sự liên kết mạnh mẽ của HLA-B*27 với viêm cột sống dính khớp (AS) đã được báo cáo lần đầu cách đây gần 50 năm. Tuy nhiên, mối liên kết cơ chế giữa HLA-B*27 và AS vẫn còn là một bí ẩn. Trong khi 85–90% bệnh nhân AS sở hữu HLA-B*27, phần lớn những người khỏe mạnh có HLA-B*27 không phát triển AS. Điều này gợi ý rằng có những gen và vùng gen bổ sung tương tác với HLA-B*27 để gây ra AS. Các nghiên cứu liên kết toàn bộ gen trước đây (GWAS) đã xác định được các gen chính được biểu hiện đặc trưng trong AS, bao gồm peptidase amino trong lưới nội chất (ERAP) 1 và ERAP2. Khi mà các phân tử mã hóa gen này chủ yếu liên quan đến quá trình xử lý và trình bày peptid, sự tương tác bệnh lý tiềm năng của các phân tử này với HLA-B*27 có thể hoạt động để gây ra AS bằng cách kích hoạt các phản ứng miễn dịch hạ nguồn. Quá trình xử lý peptid sai lệch cũng dẫn đến sự tích tụ của phức hợp protein không ổn định trong lưới nội chất (ER), điều này thúc đẩy sự phân huỷ protein liên quan đến lưới nội chất (ERAD) và phản ứng protein chưa gập (UPR) và kích hoạt quá trình tự thực bào. Trong bài đánh giá này, chúng tôi mô tả các giả thuyết hiện tại về bệnh sinh của AS, tập trung vào quá trình xử lý và trình bày kháng nguyên do HLA-B*27 và các phân tử liên quan thực hiện, có thể góp phần vào sự khởi phát và tiến triển của bệnh AS.
#HLA-B*27 #viêm cột sống dính khớp #xử lý kháng nguyên #phản ứng miễn dịch
Bước đầu đánh giá kết quả điều trị viêm cột sống dính khớp bằng thuốc ức chế TNF alpha
Mục tiêu: Đánh giá bước đầu kết quả điều trị bệnh viêm cột sống dính khớp và tác dụng không mong muốn của nhóm thuốc sinh học ức chế TNF alpha golimumab sau 12 tháng. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu can thiệp, theo dõi dọc 12 tháng ở 15 bệnh nhân có bệnh viêm cột sống dính khớp được chẩn đoán theo tiêu chuẩn NewYork sửa đổi 1984 từ tháng 01/2019 đến tháng 09/2020, đáp ứng kém với điều trị cơ bản, được theo dõi điều trị tại Khoa Nội Cơ Xương Khớp - Bệnh viện Trung ương Quân đội 108. Đánh giá kết quả điều trị dựa vào: Thang điểm BASDAI, ASDAS (máu lắng), BASFI; bệnh nhân có đáp ứng với điều trị khi BASDAI giảm ≥ 2 hoặc ASDAS giảm ≥ 1,1 so với trước khi điều trị; bệnh nhân đạt lui bệnh khi BASDAI < 3,8 hoặc ASDAS < 1,3. Các thời điểm được đánh giá: Trước điều trị (T0), sau điều trị 3 tháng (T3), sau điều trị 6 tháng (T6), sau điều trị 12 tháng (T12). Và nhận xét các tác dụng không mong muốn gặp phải khi sử dụng thuốc tại các cơ quan gan, thận, hệ tạo máu, nhiễm khuẩn thứ phát... Xử lí số liệu: Bằng phần mềm SPSS 20.0 dựa trên các thuật toán thống kê y học, so sánh được xác định là có ý nghĩa thống kê khi trị số p≤0,05. Kết quả: Tỷ lệ nam/nữ trong nghiên cứu là 3/1, tuổi trung bình 33,2 ± 3,7 tuổi; thời gian mắc bệnh trung bình 4,2 ± 2,5 năm, tỷ lệ bệnh nhân ở giai đoạn hoạt động bệnh theo BASDAI (≥ 4) là 88,9%, theo ASDAS (≥ 2,1) là 88,9%. Tại thời điểm T3 có 88,9% số bệnh nhân đạt lui bệnh theo thang điểm BASDAI. Tại thời điểm T6 có 98,9% và 85,7% số bệnh nhân đạt lui bệnh lần lượt theo các thang điểm BASDAI và ASDAS. Tại thời điểm T12 có 98,89% số bệnh nhân đạt lui bệnh theo cả hai thang điểm ASDAS và BASDAI. Có 2/15 bệnh nhân có biểu hiện nhiễm khuẩn tiết niệu. Không có bệnh nhân nào phải ngưng điều trị vì tác dụng không mong muốn nặng. Kết luận: Golimumab có cải thiện các triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng sau 12 tháng điều trị bệnh nhân viêm cột sống dính khớp. Chỉ gặp tác dụng không mong muốn khi dùng thuốc là nhiễm khuẩn tiết niệu với tỷ lệ thấp.
#Viêm cột sống dính khớp #thuốc ức chế TNF alpha
Tăng hồng cầu thứ phát khi điều trị bằng Infliximab cho bệnh viêm cột sống dính khớp Dịch bởi AI
Blood - Tập 116 - Trang 5142 - 2010
Tóm tắt

Bài báo tóm tắt 5142

Báo cáo trường hợp

Một nam giới 31 tuổi, có nguồn gốc dân tộc Ý và Đức, dương tính với HLA-B27 và bị viêm cột sống dính khớp (AS) đã bắt đầu điều trị bằng infliximab vào tháng 5 năm 2007 do không đáp ứng với thuốc chống viêm không steroid (NSAID). Bệnh của anh phản ứng rất tốt với infliximab. Anh có tiền sử hút thuốc 15 bao/năm. Trước khi bắt đầu điều trị bằng infliximab, hemoglobin của anh đạt 14,5g/dl, hematocrit 45,5% và số lượng tiểu cầu 334 × 10^3/μL. Anh dần phát triển tình trạng tăng hồng cầu với hemoglobin 20,3g/dl, hematocrit 56,6% và số lượng tiểu cầu 218 × 10^3/μL, và được chuyển đến phòng khám huyết học vào tháng 7 năm 2008. Phiến máu ngoại vi của anh được ghi nhận là không có bất thường. Đột biến Jak2 âm tính, bao gồm cả exon 12/14 và mức erythropoietin là bình thường. Sinh thiết tủy xương cho thấy tăng sinh hồng cầu và tăng nhẹ về nhuộm reticulin. Anh đã được bắt đầu điều trị bằng aspirin và lấy máu điều trị, và hematocrit của anh giảm xuống 43,6%, và nó đã vẫn dưới 45% sau 12 tháng lấy máu với việc tiếp tục điều trị bằng infliximab.

Thảo luận

Infliximab là một kháng thể đơn dòng IgG1κ chimeric nhằm vào TNF-α. Hiện nay, nó được sử dụng trong điều trị nhiều bệnh viêm. Các rối loạn huyết học liên quan đến độc tính của infliximab bao gồm giảm bạch cầu, giảm neutrophil, giảm tiểu cầu và giảm bạch cầu toàn thể.

Chúng tôi đề xuất một cơ chế mà qua đó infliximab gây ra tăng hồng cầu dựa trên việc xem xét tài liệu. Có bằng chứng ngày càng tăng rằng các cytokine như TNF-α, IL-1, IL-6 và interferon-gamma có liên quan đến các bệnh viêm. TNF-α có hai chức năng đối kháng trên một tế bào: cơ chế hủy hoại và bảo vệ. TNF kết hợp với hai thụ thể bề mặt tế bào (TNFRI và TNFRII), mà nằm trên các tế bào huyết tạo, cũng như các tế bào khác. Sau khi gắn kết, TNFRI chủ yếu điều hòa cái chết tế bào theo chương trình thông qua việc kích hoạt NF-κB nhưng cũng có các yếu tố chống chết tế bào nhẹ. TNFRII (thiếu miền chết) tương tác với yếu tố liên quan đến thụ thể TNF 2 (TRAF-2). TRAF-2 kích hoạt JNK, có tác dụng chống chết tế bào. TNF điều chỉnh một cách cụ thể việc giải phóng sắt từ đại thực bào cũng như ức chế sự hình thành các ổ hồng cầu sớm trong tủy xương. Ngoài ra, nó giữ vai trò quan trọng trong việc gây ra và duy trì tổn thương mô bằng cách kích hoạt chuỗi viêm cũng như kích thích sinh mạch. Tủy xương ở bệnh nhân bị viêm khớp dạng thấp cho thấy sự gia tăng đáng kể TNFRI và tăng nhẹ TNFRII 1,2.

Tương tự, đã chứng minh rằng các bệnh nhân mắc hội chứng loạn sản tủy (MDS) cho thấy sự biểu hiện TNF-α gia tăng trong các tế bào gốc tủy xương; trong những bệnh nhân này, quá trình tạo hồng cầu bị điều chỉnh giảm 3. Một nghiên cứu cho thấy rằng ở những bệnh nhân mắc MDS, việc điều trị bằng infliximab có thể dẫn đến sự gia tăng hemoglobin 3. Có thể rằng khi biểu hiện TNF-α trong tủy xương bị ức chế, tình trạng tăng hồng cầu, như trong trường hợp này, có thể xảy ra. Đã có tài liệu ghi nhận rằng ở những bệnh nhân bị AS, thiếu máu do bệnh mạn tính được cải thiện từ mức cơ bản với infliximab 4.

Chúng tôi không tìm thấy báo cáo nào về tăng hồng cầu thứ phát ở những bệnh nhân dùng infliximab. Trường hợp của chúng tôi cho thấy một mối liên hệ tiềm năng giữa liệu pháp infliximab và tăng hồng cầu thứ phát, và chúng tôi đề xuất một cơ chế khả thi cho mối liên hệ này. Điều quan trọng là cả bác sĩ điều trị thấp khớp và bác sĩ huyết học phải nhận thức được mối liên hệ tiềm năng này để có thể phát hiện tác dụng bất lợi này một cách tốt hơn và bắt đầu điều trị kịp thời.

1. Sawanobori, M., Yamaguchi, S., Hasegawa, M. và cộng sự. Biểu hiện của các thụ thể TNF và các phân tử tín hiệu liên quan trong tủy xương của bệnh nhân mắc hội chứng loạn sản tủy. Nghiên cứu giảm bạch cầu 2003;27:583-591.

2. Papadaki, H. Kritikos, H. Valatas, V. Boumpas, D. Eliopoulos, G. Thiếu máu do bệnh mạn tính trong viêm khớp dạng thấp có liên quan đến tăng apoptosis của các tế bào hồng cầu tủy xương: cải thiện sau khi điều trị bằng kháng thể chống TNF- alpha. Máu 2002; 100:474-482.

3. Stifter, G, Heiss, S, Gastl, G, Tzankov, A, Stauder, R. Tăng biểu hiện yếu tố hoại tử khối u-alpha trong sinh thiết tủy xương từ bệnh nhân mắc hội chứng loạn sản tủy: mối quan hệ với thiếu máu và tiên lượng. Tạp chí Huyết học Châu Âu 2005 Dec; 75(6):485-91.

4. Braun, J, van der Heijde D, và cộng sự. Cải thiện mức hemoglobin ở bệnh nhân viêm cột sống dính khớp được điều trị bằng infliximab. Viêm khớp Rheum 2009 Aug 15; 61(8):1032-6.

Các công bố:

Không có xung đột lợi ích liên quan nào cần tuyên bố.

Chúng ta đang ở đâu trong kỷ nguyên điều trị theo mục tiêu? Các yếu tố dự đoán cho tình trạng thuyên giảm và chuyển đổi thuốc ở bệnh nhân viêm cột sống dính khớp trục: Chứng cứ thực tế từ đăng ký quốc gia BioStaR Dịch bởi AI
Clinical Rheumatology - Tập 41 - Trang 2053-2063 - 2022
Các yếu tố liên quan đến hoạt động của bệnh viêm cột sống dính khớp trục (axSpA) và việc chuyển đổi thuốc sinh học sửa đổi bệnh chưa được xác định rõ ràng. Chúng tôi nhằm mục đích đánh giá các đặc điểm lâm sàng của bệnh nhân axSpA, các yếu tố liên quan đến thuyên giảm trong kỷ nguyên điều trị theo mục tiêu và các yếu tố dự đoán cho việc chuyển đổi thuốc sinh học sửa đổi bệnh. Một nghiên cứu quan sát cắt ngang đa trung tâm đã được tiến hành từ tháng 2 năm 2019 đến tháng 8 năm 2019. Chúng tôi đã bao gồm tất cả các bệnh nhân liên tiếp từ 18 tuổi trở lên với axSpA. Các biến số nhân khẩu học và lâm sàng đã được ghi lại theo cách có hệ thống. Các công cụ lâm sàng bao gồm Điểm Hoạt Động Bệnh Viêm Cột Sống Dính Khớp với Protein C-reactive (ASDAS-CRP), Chỉ số Hoạt Động Bệnh Viêm Cột Sống Dính Khớp Bath (BASDAI), Chỉ số Đo Lường Bệnh Viêm Cột Sống Dính Khớp Bath (BASMI), và Điểm Viêm Gân Mạch Bath (MASES). Có 969 bệnh nhân với độ tuổi trung bình là 43.4 ± 10.8 năm. Có 143 bệnh nhân (14.8%) đạt tình trạng thuyên giảm và 223 (23.1%) bệnh nhân có hoạt động bệnh thấp. Giới tính nam (p = 0.021), tiền sử gia đình dương tính (p = 0.036), và kháng nguyên bạch cầu người HLA-B27 (p = 0.011) là những yếu tố dự đoán cho sự thuyên giảm theo ASDAS-CRP. Có 654 bệnh nhân (67.5%) không chuyển sang thuốc khác. Điểm BASMI và MASES cao nhất được tính toán ở những bệnh nhân có hoạt động bệnh rất cao (p < 0.05). Ở những bệnh nhân có chuyển đổi thuốc, thời gian mắc bệnh cao hơn đáng kể (p < 0.001) và tuổi khi chẩn đoán thấp hơn đáng kể (p = 0.016). Có nhiều bệnh nhân bị viêm mống mắt và điểm số MASES, BASMI cao hơn ở những bệnh nhân chuyển đổi sang thuốc sinh học sửa đổi bệnh khác (p = 0.003, p = 0.009 và p = 0.004, tương ứng). Ở những bệnh nhân axSpA, giới tính nam, tuổi trẻ hơn và HLA-B27 dương tính có liên quan đến sự thuyên giảm, trong khi thời gian bệnh kéo dài và viêm mống mắt đi kèm dường như liên quan đến việc chuyển đổi thuốc. NCT04139954/25.10.2019.
#viêm cột sống dính khớp trục #thuyên giảm #chuyển đổi thuốc #thuốc sinh học sửa đổi bệnh #nghiên cứu quan sát #đăng ký BioStaR
Mối liên hệ giữa HLA-B27 với bệnh viêm cột sống dính khớp và các đặc điểm lâm sàng của bệnh viêm cột sống dính khớp liên quan đến HLA-B27: Một phân tích tổng hợp Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - Tập 37 - Trang 1267-1280 - 2017
Nhiều nghiên cứu đã ước tính mối tương quan giữa các biến thể HLA-B27 và bệnh viêm cột sống dính khớp (AS). Tuy nhiên, kết quả thu được là không thống nhất. Do đó, chúng tôi đã thực hiện phân tích tổng hợp này để xác định mối liên hệ giữa các biến thể HLA-B*27 với AS và điều tra tác động của HLA-B27 lên triệu chứng lâm sàng của bệnh nhân AS. Một tìm kiếm toàn diện đã được thực hiện trong các cơ sở dữ liệu PubMed, Web of Science và Embase để thu thập các nghiên cứu đủ điều kiện, trong đó đề cập đến mối liên hệ giữa các biến thể HLA-B27 và độ nhạy cảm với AS. Mối tương quan trong mô hình hiệu ứng cố định được ước tính bằng cách sử dụng nguy cơ tương đối (RR) và khoảng tin cậy 95% (CI). Cuối cùng, 41 nghiên cứu đã được đưa vào phân tích tổng hợp này, trong đó 35 nghiên cứu được sử dụng để phân tích mối tương quan giữa HLA-B27 và AS. Và 11 nghiên cứu được áp dụng để ước tính tác động của HLA-B27 lên các đặc điểm lâm sàng của bệnh nhân AS. Bên cạnh đó, phân tích tổng hợp của chúng tôi bao gồm 8993 bệnh nhân AS và 19.254 đối chứng khỏe mạnh. Kết quả cho thấy HLA-B27, HLA-B27*02 và HLA-B27*04 có mối liên hệ dương tính với AS (RRHLA-B27 (95% CI) 16.02 (13.85, 18.54), P < 0.001; RRHLA-B*2702 (95% CI) 1.28 (1.08, 1.53), P = 0.005; RRHLA-B27*04 (95% CI) 1.14 (1.01, 1.29), P = 0.041). Hơn nữa, sự liên kết dương tính cũng được quan sát giữa HLA-B27 và giới tính (nam) [RR (95% CI) 1.10 (1.05, 1.15), P < 0.001], tiền sử gia đình [RR (95% CI) 1.10 (1.06, 1.14), P < 0.001], viêm màng bồ đào [RR (95% CI) 1.07 (1.03, 1.11), P < 0.001], sự tham gia của khớp ngoại vi [RR (95% CI) 1.04 (1.01, 1.07), P = 0.013] và sự tham gia của khớp hông [RR (95% CI) 1.06 (1.02, 1.10), P = 0.003]. Ngoài ra, chúng tôi cũng phát hiện rằng HLA-B27*04 có liên kết với sự tham gia của khớp ngoại vi [RR (95% CI) 1.13 (1.05–1.23), P = 0.002]. Kết luận, phân tích tổng hợp hiện tại cho thấy HLA-B27, đặc biệt là các kiểu hình của nó (HLA-B27*02 và HLA-B27*04) có thể là các yếu tố nguy cơ tiềm năng cho AS.
#HLA-B27 #bệnh viêm cột sống dính khớp #biến thể HLA-B27 #phân tích tổng hợp
Tổng số: 22   
  • 1
  • 2
  • 3